Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - Giải pháp nâng cao giá trị cho đặc sản địa phương

Việt Nam là một nước có nền văn minh nông nghiệp lâu đời, với tổ chức cộng đồng cơ bản là làng xã, do vậy các sản phẩm truyền thống của chúng ta chủ yếu là nông sản và hàng thủ công mỹ nghệ. Mỗi sản phẩm này đều mang dấu ấn đặc trưng riêng của một vùng quê, một khu vực địa lý nào đó của đất nước - và trở thành sản phẩm đặc sản của địa phương. Những đặc sản địa phương như vậy đã được chọn lọc trải qua nhiều thế hệ; gắn với mồ hôi, công sức, sự sáng tạo của các thế hệ cha ông kèm với những giá trị văn hóa truyền thống, do đó cần phải được bảo tồn, gìn giữ và phát triển.
Theo thống kê sơ bộ của Cục Sở hữu trí tuệ, cả nước có 964 đặc sản gắn với 733 địa danh thuộc các nhóm sản phẩm khác nhau. Sản xuất, kinh doanh đặc sản là nghề thu hút lao động của cả vùng và là nguồn thu nhập chính cho người nông dân. Đặc biệt một số vùng sản xuất đặc sản địa phương đã trở thành điểm tham quan du lịch, quảng bá hình ảnh của quê hương, đất nước với bạn bè trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra hiện nay là phần lớn các sản phẩm đặc sản địa phương của Việt Nam hiện đang được tiêu thụ và xuất khẩu dưới dạng sản phẩm thô, đa số chưa được đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, chưa có bao bì, nhãn mác và chưa được quảng bá, khai thác và phát triển hết giá trị tiềm năng của nó. Để khắc phục hạn chế này, việc sử dụng công cụ sở hữu trí tuệ nhằm nâng cao giá trị cho các đặc sản địa phương của Việt Nam là một trong những hướng đi cần tập trung phát triển.
Lịch sử phát triển của xã hội và thực tế ở các nước phát triển đã chỉ ra rằng, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ đã trở thành một công cụ hữu hiệu và quan trọng để nâng cao giá trị cho sản phẩm đặc sản địa phương.
Do đặc sản địa phương luôn luôn gắn liền với tên địa danh và mang những tính chất đặc thù riêng nên cần lựa chọn các hình thức bảo hộ phù hợp để phát huy được giá trị truyền thống và đặc trưng của sản phẩm đặc sản. Theo quy định, các địa danh dùng cho đặc sản chỉ có thể được đăng ký bảo hộ dưới hình thức chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận và nhãn hiệu tập thể nhằm đảm bảo quyền sử dụng của cả cộng đồng các nhà sản xuất, kinh doanh ở địa phương. Các dấu hiệu này được gắn kèm theo nhãn hiệu riêng của từng doanh nghiệp trên bao bì sản phẩm để phân biệt sản phẩm của các doanh nghiệp khác nhau. Để được trao quyền sử dụng các đối tượng sở hữu trí tuệ này, doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện nhất định, sản phẩm phải đảm bảo đáp ứng các tiêu chí chất lượng cụ thể và phải tuân theo một hệ thống kiểm soát chặt chẽ. Đây là một trong những căn cứ giúp đảm bảo uy tín và danh tiếng của sản phẩm: sản phẩm để được lưu thông trên thị trường phải đạt tiêu chuẩn chất lượng và đúng nguồn gốc xuất xứ. Đây cũng là lý do tại sao người tiêu dùng sẵn sàng trả giá cao hơn nhiều lần cho sản phẩm được bảo hộ chỉ dẫn địa lý, nhãn hiệu chứng nhận, nhãn hiệu tập thể so với sản phẩm thông thường cùng loại.
Theo thống kê của các địa phương, sản phẩm đặc sản sau khi được đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, hầu hết các sản phẩm đều bán được với giá cao hơn từ 1,5-3 lần (vải thiều Lục Ngạn, gạo tám xoan Hải Hậu, nước mắm Phú Quốc, hồi Lạng Sơn...), sản lượng tiêu thụ mạnh hơn, người nông dân tập trung chăm lo phát triển sản xuất hơn. Tại một số địa phương, việc bảo hộ sở hữu trí tuệ cho sản phẩm đã có tác động tích cực tới sự phát triển nông nghiệp nông thôn như: giá đất tăng cao (thanh long Bình Thuận), giải quyết được việc làm cho nông dân trong thời kỳ nông nhàn (nón lá Huế), hạn chế hiện tượng lao động đổ ra thành phố (vải thiều Lục Ngạn).
Giá trị của một số đặc sản tăng nên sau khi bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ

Sản phẩm
Giá bán 2007
Giá bán 2009
Tăng
Nước mắm Phú Quốc
12.000đ/lít
21.000 đ/lít
75%
Gạo tám Hải Hậu
10.500 đ/kg
18.500 đ/kg
43,24%
Bưởi Đoan Hùng
6.000 đ/quả
15.000 đ/quả
150%
Thanh long Bình Thuận
8.000 đ/kg
11.000 đ/kg
37,5%
Vải thiều Lục Ngạn
3.000-6.000đ/kg
10.000-11.000đ/kg
83%
Hoa hồi Lạng Sơn
3- 5.000đ/kg
26-28.000đ/kg
460%

Tuy nhiên, việc sử dụng sở hữu trí tuệ như một công cụ nhằm nâng cao giá trị đặc sản Việt Nam hiện nay chưa thực sự được chú trọng. Trong số 964 đặc sản, tính đến tháng 6/2010, mới chỉ đăng ký bảo hộ được 19 chỉ dẫn địa lý, khoảng 7 nhãn hiệu chứng nhận và 20 nhãn hiệu tập thể. Với sự hỗ trợ của Chương trình hỗ trợ phát triển tài sản trí tuệ, đã có 23 dự án về chỉ dẫn địa lý và 30 dự án về nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận được triển khai thực hiện bao gồm các nội dung hỗ trợ tiến hành thủ tục đăng ký quyền sở hữu trí tuệ, thiết kế các phương tiện quảng bá sản phẩm, xây dựng mô hình quản lý và khai thác quyền... Con số này, so với nhu cầu thực tiễn vẫn còn rất hạn chế.
Từ những thực tế trên cho thấy, nếu chúng ta không chú trọng quan tâm xây dựng vào bảo hộ quyền tài sản trí tuệ cho các sản phẩm đặc sản địa phương, các sản phẩm nông đặc sản có giá trị của chúng ta có thể “thua ngay trên sân nhà”. Việc sử dụng công cụ sở hữu trí tuệ để nâng cao giá trị cho các sản phẩm đặc sản địa phương cần phải có sự phối hợp, tham gia tích cực của các cấp, các ngành có liên quan, trong đó đặc biệt là vai trò của cộng đồng người dân vùng đặc sản và cần phải có một quá trình để sản phẩm đặc sản phát triển một cách bền vững.
Trần Mạnh Hùng - Phòng QLCN- SHTT Sở KH&CN