Về vấn đề cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 được Đại hội XI của Đảng thông qua (1-2011) đã chỉ rõ: “Chuyển đổi mô hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển theo chiều rộng sang phát triển hợp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính bền vững. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế…”(1)
Cơ cấu lại nền kinh tế hay tái cơ cấu nền kinh tế được coi là “cải tiến cơ cấu”, làm cho tốt hơn cái đã có. Văn kiện Đại hội XI của Đảng sử dụng thuật ngữ “cơ cấu lại nền kinh tế”. Cơ cấu lại nền kinh tế là làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế, chuyển cơ cấu của nền kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác, và chủ động phân bổ lại các nguồn lực phát triển sao cho đạt hiệu quả cao nhất, kinh tế - xã hội phát triển bền vững nhất.
Báo cáo chính trị của BCHTƯ Đảng khóa X tại Đại hội XI đã nhận xét: “Kinh tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước; một số chỉ tiêu không đạt kế hoạch…”(2).
Từ tình hình trên, thực hiện định hướng chiến lược của Đại hội XI của Đảng, Hội nghị lần thứ ba BCHTƯ Đảng (khóa XI) (từ ngày 6 đến 10-10-2011) đã đề ra một trong những “Mục tiêu tổng quát của 5 năm 2011 - 2015 là: Phát triển kinh tế nhanh, bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh trạnh”(3). Hội nghị đã khẳng định quyết tâm, trong 5 năm tới, cơ cấu lại nền kinh tế trên 3 lĩnh vực quan trọng là: tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước; tái cơ cấu thị trường tài chính với trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính.
1- Tái cơ cấu đầu tư với trọng tâm là đầu tư công nhằm mục tiêu huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả, theo thứ tự ưu tiên hợp lý nhất các nguồn lực của Nhà nước và xã hội, nội lực và ngoại lực cho đầu tư phát triển. Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách đầu tư phải có tầm nhìn xa, không chủ quan duy ý chí, không bị bệnh thành tích hoặc lợi ích nhóm… chi phối, công khai hóa, tận dụng mọi phản biện xã hội… Quy trình và phương pháp xây dựng, tổ chức thực hiện quy hoạch, kế hoạch phải thực sự khoa học. Xác định đúng các tiêu chí và thứ tự ưu tiên làm căn cứ để phê duyệt, từ chối hay cắt giảm các dự án đầu tư, nhất là đầu tư công. Đổi mới tư duy hiện nay là đã đầu tư thì phải dựa vào ngân sách nhà nước là chính; điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư; giảm tỷ trọng đầu tư công (DTC) trong tổng đầu tư xã hội xuống mức hợp lý. Đa dạng hóa các hình thức đầu tư, huy động các nguồn lực khác theo phương thức hợp tác công - tư, mở rộng mô hình xã hội hóa, kể cả các dịch vụ công ích.
Nâng cao hiệu quả đầu tư bằng các biện pháp sửa đổi, bổ sung những quy định pháp lý như: ban hành Luật Đầu tư công để điều chỉnh toàn bộ quy trình đầu tư công, từ xây dựng dự án, nghiên cứu khả thi, phê duyệt, thực hiện và thanh quyết toán, đưa vào sử dụng, quản lý sau khi đầu tư; sửa đổi những bất cập trong Luật Ngân sách; nghiên cứu ban hành Luật Quy hoạch; thống nhất về mặt quản lý nhà nước về quy hoạch trong một đầu mối thống nhất.
Khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, thời gian thi công kéo dài, gây lãng phí, thất thoát, hiệu quả thấp. Cải thiện tình hình  phát triển quá nhiều các khu kinh tế, khu công nghiệp, mà không tính toán đến khả năng thu hút các doanh nghiệp vào đầu tư, hiệu quả kinh tế - xã hội và tác động môi trường, khai thác quá mức tài nguyên, khoáng sản.
Đối với đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước, cần quy định lộ trình thoái vốn đã đầu tư vào các hoạt động ngoài ngành kinh doanh chính.
Xây dựng cơ chế phân cấp quyết định đầu tư theo hướng doanh nghiệp nhà nước tự chủ đến một ngưỡng phù hợp, đại diện chủ sở hữu là người chịu trách nhiệm cao nhất về quyết định đầu tư.
Tái cơ cấu đầu tư công với nội dung trọng tâm là tăng cường siết chặt kỷ cương phân cấp, thực hiện quy hoạch để nguồn vốn đầu tư công đóng vai trò đích thực trong việc kích thích các nguồn vốn tư nhân và nước ngoài.
2- Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước mà trọng tâm là các tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước phải quán triệt mục tiêu nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Kiên quyết chấm dứt tình trạng các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước đầu tư dàn trải ra ngoài ngành, lĩnh vực sản xuất - kinh doanh chính. Chỉ phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những ngành, lĩnh vực quan trọng, then chốt của nền kinh tế quốc dân, chủ yếu thuộc các chuyên ngành kinh tế - kỹ thuật liên quan đến kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, dịch vụ công, ổn đinh kinh tế vĩ mô. Hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước, thực hiện quyền và trách nhiệm của chủ sở hữu nhà nước đối với vốn và tài sản của Nhà nước tại các doanh nghiệp này, bảo đảm công khai, minh bạch về tài chính. Hình thành một mô hình quản trị doanh nghiệp phù hợp với thông lệ quốc tế để đến năm 2015, Việt Nam được xếp vào nhóm các nước đứng đầu trong xếp hạng quản trị tốt theo các tiêu chí chủ yếu mà tổ chức các nước kinh tế phát triển (OECD) đưa ra qua bốn cấp độ thứ tự từ tôn trọng pháp luật, hiệu quả, sự minh bạch đến trách nhiệm cộng đồng. Theo đó, quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước phải lấy các tiêu chí này làm mục tiêu phấn đấu. Đẩy nhanh hơn nữa tiến trình sắp xếp, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, trong đó có việc tìm nhà đầu tư chiến lược có năng lực thật sự, có vị thế không chỉ trong nước mà cả quốc tế để nâng cao chất lượng hoạt động sau cổ phần hóa.
Hoàn thiện các đạo luật liên quan đến doanh nghiệp như các Luật: Doanh nghiệp, Thương mại, Phá Sản, Cạnh tranh; xây dựng thêm: Luật Quản lý vốn Nhà nước, Luật Đầu tư công…, tạo cơ sở pháp lý cần thiết để điều chỉnh các hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. Tiếp tục hoàn thiện thể chế trên các lĩnh vực như: quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước; quản lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước; quản lý sản xuất kinh doanh tại doanh nghiệp; thể chế về tổ chức, công tác cán bộ trong doanh nghiệp nhà nước.
Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước phải nhất quán theo quan điểm doanh nghiệp nhà nước là công cụ quan trọng giúp Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Tái cơ cấu phải làm cho doanh nghiệp mạnh hơn, góp phần để kinh tế nhà nước phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước phải được thực hiện trên cả phương diện vĩ mô và vi mô, đồng thời gắn với tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và ổn đinh kinh tế vĩ mô, phù hợp chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 -2020.
3- Tái cơ cấu thị trường tài chánh với trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính theo hướng minh bạchhóa, lành mạnh hóa và thị trường hóa,nhằmmục tiêuđổi mới , nâng cao hiệu lực , hiệu quả quản lý nhà nước đối với thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường tiền tệ, đặc biệt thị trường vàng và ngoại tệ, khắc phục tình trạng đô-la hóa, vàng hóa; kiểm soát chặt chẽ nợ công, nợ xấu của các doanh nghiệp nhà nước, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư vào lĩnh vực bất động sản; giảm dần tỷ lệ cung cấp vốn cho đầu tư phát triển từ hệ thống ngân hàng thương mại; cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính theo hướng sáp nhập, hợp nhất các ngân hàng và tổ chức tài chính quy mô nhỏ để có số lượng phù hợp, có năng lực tài chính, có uy tín, hoạt động lành mạnh, bảo đảm tính thanh khoản cao và an toàn hệ thống.
Công táctái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại chỉ thành công khi gắn kết với cơ cấu lại từng ngân hàng thương mại (từ cơ cấu lại vốn điều lệ đến cơ cấu lại tài sản Có và tài sản Nợ của mỗi ngân hàng). Cần xử lý vấn đề sở hữu chéo trong hệ thống ngân hàng, nói riêng và hệ thống tài chính, nói chung. Cần có nguyên tắc về xử lý nợ xấu và tính thanh khoản cả trong thời gian trước, trong và sau khi cơ cấu lại hệ thống ngân hàng để lành mạnh hóa hệ thống khi kết thúc lộ trình cơ cấu lại. Cần nâng cao năng lực tài chính, quản trị ngân hàng và khả năng cạnh tranh, phát triển quy mô, phạm vi hoạt động của các tổ chức tín dụng đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế và hội nhập quốc tế.
Quan điểm tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thương mại là phải bảo đảm không ảnh hưởng đến lợi ích của người gửi tiền, không gây ra sự đổ vỡ của hệ thống, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội với chi phí thấp nhất.
Nhà nước chủ động ban hành những quy định quản lý phù hợp. tái cơ cấu các công ty tài chính trực thuộc các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước.
Vấn đề đặt ra là phải bảo đảm sự đồng bộ khi thực hiện tái cơ cấu 3 lĩnh vực quan trọng nói trên do mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau giữa chúng.
Về nhận thức, cơ cấu lại nền kinh tế cần được xem như là một bộ phận của việc hình thành chiến lược phát triển kinh tế dài hạn, đòi hỏi phải tiếp cận vấn đề một cách tổng hợp, căn bản.
Cơ cấu lại nền kinh tế đặt ra yêu cầu chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Ngược lại, chuyển đổi mô hình tăng trưởng là nội dung cơ bản của tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, là điều kiện để nâng cao hiệu suất sử dụng vốn, nâng cao hiệu quả và sức cạnh trạnh của nền kinh tế, từ đó, tác động mạnh mẽ đến tái cơ cấu đầu tư và tái cơ cấu thị trường tài chính.
Chúng ta đang sống trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế sâu rộng, muốn tồn tại và phát triển, đòi hỏi phải tăng cường khả năng cạnh tranh của nền kinh tế. Điều này bắt buộc chúng ta không chỉ quan tâm đến tốc độ tăng trưởng mà phải đặc biệt coi trọng việc nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng dựa vào tăng vốn đầu tư, khai thác các tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt, nguồn nhân lực rẻ nhưng chất lượng thấp sang mô hình tăng trưởng dựa vào các nhân tố năng suất tổng hợp bao gồm khả năng áp dụng các thành tựu mới nhất của khoa học, công nghệ, chất lượng nguồn nhân lực cao và phương pháp quản trị hiện đại để có giá trị gia tăng nhiều hơn.
Để thực hiện được mô hình tăng trưởng mới thì “quy hoạch quốc gia phải thống nhất, có tầm nhìn toàn cầu, thực thi theo nguyên tắc phát huy lợi thế, kết nối phát triển tốt, thể chế hiện đại, tạo đột phá mạnh, lan tỏa nhanh, hệ thống giám sát chặt chẽ và chế tài nghiêm khắc”. Ngoài ra, cần ngăn chặn các bệnh thành tích, tư duy nhiệm kỳ, lợi ích nhóm và “lợi ích ghế”… cũng là những cản trở quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, thay đổi mô hình tăng trưởng.
Cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong bối cảnh hiện nay nhất định sẽ tạo ra sự bứt phá mới trên con đường phát triển bền vững của đất nước.
Nguyễn Xuyến