Trong bối cảnh quốc tế và Việt Nam sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là lời tuyên bố cáo chung chế độ thuộc địa dưới mọi hình thức, đồng thời cũng là lời báo hiệu thời đại thắng lợi của phong trào giải phóng dân tộc trên phạm vi toàn thế giới.
Trong lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đã kế thừa, phát triển, nâng lên tầm cao mới truyền thống kiên cường, bất khuất của dân tộc ta.
Ngay từ thế kỷ XI (1077), người anh hùng dân tộc Lý Thường Kiệt với bài thơ tứ tuyệt, đã động viên quân sĩ chống giặc Tống, bảo vệ chủ quyền đất nước:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư
Tuyệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”.
Đến thể kỷ XV, Nguyễn Trãi, người anh hùng dân tộc đã có công giúp vua Lê Lợi đánh thắng quân Minh trong cuộc chiến tranh kéo dài 10 năm, đã viết bản Bình Ngô đại cáo, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam có một truyền thống hàng ngàn năm văn hiến.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945, bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 một lần nữa nêu cao tinh thần bất khuất, quật cường của dân tộc, là một văn kiện pháp lý mẫu mực - về lý luận và biện luận của pháp quyền dân tộc và của công pháp quốc tế hiện đại.
Đối với nhân dân Việt Nam, Tuyên ngôn Độc lập 1945 là một áng văn lập quốc vĩ đại, mở đầu kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Bản Tuyên ngôn Độc lập 1945 là một văn kiện lịch sử có giá trị về nhiều mặt: chính trị, pháp lý, văn hoá, tư tưởng…, đồng thời là một tác phẩm chính luận lớn, có giá trị cao về văn học và ngôn ngữ, xứng đáng được xếp vào hàng “thiên cổ hùng văn” của dân tộc ta.
Bản Tuyên ngôn Độc lập 1945 là kết quả tuyệt vời của trí tuệ, điểm hội tụ tư tưởng thời đại, tư tưởng nhân văn cách mạng tư sản cận đại Âu - Mỹ, tư tưởng nhân văn truyền thống phương Đông và tư tưởng nhân văn Mác - Lê-nin hiện đại. Tự do cho con người, bác ái và bình đẳng là những từ ngữ đẹp chứa đựng một nội dung nhân văn lớn mà loài người hằng mong ước. Đó cũng chính là nội dung lớn của triết học nhân văn thời đại.
Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dựa vào những chân lý về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Những quyền ấy đã được Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1791 của Cách mạng Pháp xác nhận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở rộng quyền của con người thành quyền của dân tộc. Quyền lợi của mỗi cá nhân được coi là cơ sở cho quyền lợi của cách mạng, của dân tộc. Tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình. Đó là sự thống nhất giữa quyền sống của mỗi con người, quyền độc lập của dân tộc. Đó là giá trị nhân bản của Tuyên ngôn Độc lập 2-9.
Tuyên ngôn Độc lập 1945 đã khẳng định: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập! Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức một cách khoa học cuộc cách mạng dân tộc của mình. Người đã nhận rõ phạm trù cuộc cách mạng dân tộc tháng 8 năm 1945, Người đánh giá cao cuộc cách mạng tư sản Mỹ. Tuyên ngôn Độc lập 2-9 mở ra một thời đại mới của lịch sử Việt Nam thừa nhận nguyên lý nhân văn của cuộc cách mạng Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Sự gặp gỡ của cuộc cách mạng Mỹ thế kỷ 18 và cuộc cách mạng Việt Nam giữa thế kỷ 20 là sự gặp gỡ từ bản chất nhiệm vụ hai cuộc cách mạng có tính tương đồng. Ngọn đuốc độc lập, tự do của cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ đã hấp dẫn Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhân dân Mỹ hơn một thế kỷ trước Cách mạng Tháng Tám 1945 đã đưa ra triết lý nhân văn của mình. Phải chăng điều này giúp chúng ta có thể hiểu thêm vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại lựa chọn những dòng ngời đuốc trí tuệ của Tuyên ngôn Độc lập Mỹ năm 1776 mở đầu Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 của Việt Nam.
Lịch sử nước ta đầy truyền thống nhân văn. Chúng ta đã từng sẵn sàng chu cấp cho kẻ thù rút khỏi nước ta “đi bộ thì ta cho ngựa, đi thủy thì ta cấp thuyền”.
Chúng ta tuân theo thứ triết học nhân văn của phương Đông, đồng thời có tính nhân loại. Đó là thế ứng xử chung “Cái ta không muốn, ắt người chẳng ưa” (Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân). Triết lý của đạo Khổng và triết lý phương Tây đều tán dương nguyên tắc đạo đức ấy.
Tuyên ngôn Độc lập 1945 bất đầu bằng một định đề triết học nhân văn dẫn từ Tuyên ngôn Độc lập Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp năm 1791 với những nguyên tắc không thể nào chối cãi được. Sau đó, bằng những liệt kê tóm lược về tội trạng ăn cướp, tước đoạt mà bất cứ ai có lương tri đều thấy sự phi lý của nó. Bản Tuyên ngôn Độc lập 1945 như lời tuyên án chế độ thực dân trong ngày phán xử cuối cùng.
“Mỗi người sinh ra có quyền bình đẳng”, đó là cái “muốn” của nhân dân Mỹ đấu tranh cho lẽ sống của mình. “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đó là nguyện vọng của quần chúng bình dân trong cuộc cách mạng Pháp đấu tranh vì lẽ sống của mình.
Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu triết học nhân văn, tinh hoa trí tuệ của nhân dân Pháp - Mỹ. Tuyên ngôn Độc lập 1945 tự bản chất như toát lên sự gặp gỡ của dòng triết học nhân văn phương Đông và phương Tây.
Tuyên ngôn Độc lập 1945 với tư tưởng nhân văn như dòng quy tụ triết học nhân văn Á - Âu - Mỹ, dòng hợp lưu trí tuệ của nhân loại với Việt Nam, đã trở thành sức mạnh trí tuệ đầy sức thuyết phục, thành vũ khí đấu tranh, buộc ngay cả kẻ thù chỉ cần một chút lương tri cũng phải thừa nhận.
Tuyên ngôn Độc lập 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh mãi mãi khắc sâu vào tâm khảm của bao thế hệ người Việt Nam.
Nguyễn Xuyến